Nội thất bếp. Thiết kế bếp. Báo giá bếp. Thi công bếp


Nội thất bếp, nội thất bếp mới, kệ bếp thông minh, gạch lát bếp, tủ bếp đẹp, tủ bếp hiện đại, tủ bếp thông minh, tủ bếp đẹp rẻ, tủ bếp đẹp giá rẻ, tủ bếp giá rẻ, các mẫu tủ bếp đẹp, bộ tủ bếp, tủ bếp đẹp, tủ bếp đẹp nhất, các loại tủ bếp, tủ bếp đẹp rẻ, bếp gọn đẹp, tủ bếp chữ l cho nhà nhỏ, mẫu tủ bếp, mẫu tủ bếp nhỏ xinh, thi công bếp, sửa nhà bếp, cách đóng tủ bếp, cách bố trí bếp nhỏ, đóng tủ bếp tphcm, phối màu sơn phòng bếp, kệ bếp mini, kệ bếp thông minh, kệ treo ly inox, kệ lò vi sóng 1 tầng, kệ để xoong nồi, kệ inox nhà bếp, kệ gia vị đa năng, kệ bếp nhôm kính giá rẻ, bộ tủ bếp, bộ tủ bếp giá bao nhiêu, báo giá tủ bếp, giá tủ bếp gỗ, báo giá tủ bếp gỗ sồi, báo giá tủ bếp tphcm, báo giá tủ bếp, giá tủ bếp gỗ sồi, tủ bếp giá rẻ, tủ bếp gỗ sồi, tủ bếp nhựa, tu bep laminate, tủ bếp acrylic, báo giá tủ bếp acrylic, tủ chén nhựa, báo giá tủ bếp laminate, bếp từ, bếp gas cao cấp, bếp hồng ngoại là gì, bếp từ đôi âm, bếp điện đức, bếp từ là gì, bếp từ âm tủ, bồn rửa chén bằng đá, bản lề tủ bếp, đèn led gắn tủ bếp.

April 18, 2021

CÁC LOẠI BẾP

Bếp than (Baseburner)

Ông Jordan Mott đã sáng chế ra bếp than vào năm 1833. Nó được gọi là "baseburner", tạm hiểu là cái bếp được cho than vào qua cái phễu phía trên buồng đốt. Lò có hệ thống thông gió để đốt than hiệu quả và giữ nhiệt đều để các phần thực phẩm không bị cháy trong khi các phần khác vẫn nóng.

Bếp dầu (Kerosene)

Ông Frans Wilhelm Lindqvist, người Thụy Điển, được ghi nhận là sáng chế ra loại bếp dầu đầu tiên trong năm 1892. Bếp dầu đốt cháy khí được hóa hơi từ nhiên liệu lỏng trong các ống tạo thành đầu đốt. Thiết kế của ông ấy quá thành công để đưa ra quyết định thành lập công ty sản xuất bếp dầu với tên gọi "Primus". Mẫu bếp đầu tiên gọi là No.1 và một loạt mẫu khác ra đời nhắm đến nhiều phân khúc thị trường khác nhau.

Năm 1962, một phần công ty Primus được bán cho công ty Optimus dưới tên mới là "Primus Trading", vẫn tiếp tục sản xuất bếp dầu. Công ty Primus đóng cửa năm 1972. Công ty Optimus vẫn tiếp tục sản xuất các loại bếp dầu đến tận năm 1996 rồi sau đó quyết định ngưng sản xuất để tập trung cho các loại bếp gas và các loại bếp đa nhiên liệu.

Bếp gas (Gas stove)

John Clayton, người Anh, đã khám phá ra khí than đá qua kỹ thuật chưng cất vào năm 1684, nhưng ông ấy chưa tìm được cách sử dụng nó.

Bếp gas đầu tiên sử dụng vào năm 1802 được ghi nhận là của một nhà hóa học Zachaus Winzler, người Moravia, một vùng đất lịch sử thuộc nước Cộng hòa Séc. Ông Winzler đã tổ chức một buổi tiệc ăn tối với nhiều món đồ ăn được nấu nướng bằng bếp nấu gas bao gồm bốn đầu đốt và một lò nướng nhỏ. Tuy nhiên, bếp gas của ông chưa được ứng dụng rộng rãi.

Một nhà phát minh người Anh James Sharp, kỹ sư nhiều năm làm việc cho công ty Southampton Gas, đã được cấp bằng sáng chế bếp gas vào năm 1826. Trong một cuốn sách nhỏ của ông được xuất bản vào năm 1851, ông nói rằng nó đã kéo dài 24 năm kể từ lần đầu tiên ông giới thiệu ứng dụng của khí đốt vào nấu ăn, và nhắc đến một bài thuyết trình của ông vào tháng 6 năm 1837 trong học viện Cơ khí tại Southampton, nhân dịp ông ấy đã nấu một bữa ăn tối quan trọng cho một số lượng lớn khách mời công ty tham gia. Ông ấy nói thêm rằng một trong những khó khăn trong việc giới thiệu bếp gas này đó là việc các đầu bếp nhìn sản phẩm đầy nghi ngờ và không thích, cảm giác giống như các bà chủ sẽ không cần đến họ nấu ăn nữa..v.v..

Trong những năm 1910, bề mặt bếp gas được tráng lớp men bảo vệ giúp chống trầy xước và dễ lau chùi. Từ thời điểm này, bếp gas đã trở thành sản phẩm thông dụng trong mọi nhà bếp.

Bếp điện (Electric Oven)

Ông Thomas Ahearn, có ba mẹ Norah và John Ahearn là người Ba Tư nhập cư, sống tại chung cư LeBreton đường Duke, thành phố Ottawa, Canada. Tuy là một kỹ sư, nhà kinh doanh và đầu tư có cuộc sống rất bận rộn như nhà điều hành điện báo và giám đốc công ty điện thoại, nhưng ông ấy vẫn luôn đam mê sáng tạo. Vào năm 1882, ông Ahearn cùng với một người bạn kinh doanh Warren Soper thành lập một công ty điện lực Ottawa Electric Railway. Trong số các thành tựu như xây dựng hệ thống đèn đường chiếu sáng và hệ thống làm ấm xe hơi bằng nước nóng sử dụng điện, ông Ahearn còn sáng tạo bếp điện trong năm 1892. Phát minh bếp điện của ông đã góp phần hoàn thiện nấu ăn tại nhà. Bếp điện đầu tiên của ông Ahearn được lắp đặt sử dụng tại khách sạn Windsor, Ottawa và đã gặt hái được thành công to lớn.

Vào năm 1897, ông William Hadaway được cấp bằng sáng chế cho loại bếp điện kiểm soát tự động (Automatically Controlled Electric Oven) tại nước Mỹ. Tuy nhiên, bếp điện vẫn chưa làm hài lòng mọi người vì lí do chi phí sử dụng quá cao so với các loại bếp gas hay than. Lí do là hệ thống điện vẫn chưa được hệ thống hóa phân phối đến từng nhà và công nghệ kỹ thuật chưa tiện dụng, cần cải tiến nhiều, và các thiết bị đốt nóng bằng điện có tuổi thọ ngắn, dễ hư hỏng.

Phải đến những năm 1930, qua việc giảm giá sử dụng điện và hệ thống lưới điện phủ khắp đất nước, bếp điện mới trở thành một sản phẩm tiêu dùng được sử dụng trong mọi ngôi nhà.

Bếp từ (Induction cooker)

Việc sử dụng bếp từ đã có từ năm 1933, khi đó công ty Frigidaire, một phân nhánh của công ty General Motors, thuyết trình trong một buổi ra mắt sự kiện gọi là “Century of Progress” tại Hội chợ triển lãm Thế giới, được tổ chức tại Chiago, nước Mỹ. Cho đến năm 1970 các chuyên gia khá quan tâm đến việc chứng minh cách thức hoạt động của cảm ứng, nhưng họ không quá quan tâm đến cách nó có thể được sử dụng để nấu ăn.

Mẫu bếp từ đầu tiên được sản xuất vào đầu năm 1970 tại Mỹ. Nó được phát triển bởi bộ phận thiết kế của công ty Westinghouse Electric Corporation. Năm 1971, nó được giới thiệu đến công chúng tại bang Texas. Những bếp từ này chỉ có một mâm nhiệt để nấu nướng. Dòng sản phẩm tiếp theo có tên gọi "Cool Top 2".

Bếp từ 7 đầu đốt bán trên thị trường được sản xuất bởi công ty Sears, một nhà sản xuất thiết bị gia dụng, vào năm 1980. Tuy nhiên, khuyết điểm của những bếp này là cung cấp công suất thấp, điện trở hạn chế và tạo tiếng ồn.

Qua thời gian, với nhiều cải tiến về mặt kỹ thuật, bếp từ được xem là sản phẩm thông dụng và hiệu quả về mặt thẩm mỹ và kinh tế. Ngày nay, bếp cảm ứng từ có thiết kế sang trọng, tốc độ nấu nhanh, tiết kiệm thời gian, đã và đang là sự lựa chọn tối ưu cho không gian bếp hiện đại.

Lò nướng bánh mì (Toaster Ovens)

Trước khi có lò nướng bánh mì, các bánh mì đều đặt trên một vỉ kim loại và được nướng bằng tay trên bếp dầu hay bếp gas.

Mẫu lò nướng bánh mì đầu tiên được sáng tạo bởi ông Alan MacMasters trong năm 1983 tại đất nước Scotland. Ông Alan gọi thiết bị này là "Eclipse Toaster". Sau đó, nó được sản xuất và đưa ra thỉ trường bởi công ty Crompton. Tuy nhiên, máy nướng này chỉ nướng được một mặt, người dủng phải tự lật mặt bánh mì để nướng tiếp.

Thách thức kỹ thuật đối với các lò nướng bánh mì ban đầu là phát triển một bộ phận gia nhiệt có thể duy trì nhiệt độ cao dùng bền vững. Trong năm 1905, ông Albert Marsh tạo ra được "Nichrome", một loại dây điện trở hợp kim niken và crom dùng làm bộ phận làm nóng trong lò nướng bánh mì vừa an toàn vừa hiệu quả.

Năm 1906, ông George Schneider đã nhận được bằng sáng chế lò nướng bánh mì dùng điện sử dụng dây điện trở Nichrome. Tại thời điểm này, ông ấy đang làm việc cho công ty American Electrical Heater tại thành phố Detroit, nước Mỹ.

Năm 1909, công ty General Electric đã giới thiệu lò nướng bánh mì dùng điện ứng dụng hợp kim. Mẫu sản phẩm D12, được sáng tạo bởi ông Frank Shailor, kỹ sư của công ty General Electric. Đây là mẫu được bán trên thị trường thành công nhất với hàng triệu sản phẩm tại Mỹ trước khi chúng được sử dụng tại Châu Âu.

Ngoài ra, ông William Hadaway (1866-1953), người đã sáng chế bếp điện, cũng được ghi nhận sáng chế lò nướng bánh mì. Ý tưởng sáng chế lò nướng bánh mì đến rất ngẫu nhiên. Xét căn bản, ông chỉ tận dụng lại những vật liệu còn dư trong quá trình sản xuất bếp điện để tạo ra lò nướng bánh mì. Ông ấy đã làm việc với Công ty Điện lực Westinghouse để sản xuất máy nướng trong năm 1910.

Đáp ứng nhu cầu tiết kiệm sức lao động, số lượng thiết bị gia dụng tăng cao nên các công ty điện lực bắt đầu cung cấp dịch vụ 24/24. Các mẫu máy cải tiến tốt hơn nhanh chóng ra đời sau đó, một số có ngăn kéo trượt, một số khác sử dụng tính cơ học để đảo bánh mì. Tuy nhiên, sự đổi mới thực sự xảy ra trong năm 1919, máy nướng bánh mì kiểu Pop-up tự động (the pop-up toaster) được sáng tạo bởi thợ cơ khí Charles Strite trở thành sản phẩm thông dụng nhất trên thị trường. Tuy nhiên, nó lại có giá đắt đỏ so với người dân và chỉ dành bán cho các nhà hàng.

Đến năm 1926, công ty Waters-Genter thiết kế lại phiên bản lò nướng của ông Strite, và gọi là “Toastmaster”. Đây chính là sản phẩm chính thức dành cho người tiêu dùng. Cải tiến thiết kế Toastmaster được xem là một cách mạng trong dòng sản phẩm lò nướng bánh mì. Nói tóm lại, lò nướng bánh mì là một sản phẩm yêu thích của người Mỹ. Qua thời gian, nó từ một thiết bị đơn giản trờ thành thiết bị phục vụ nhiều mục đích khác nhau.

Lò vi sóng (Microwave oven)

Ngày nay, Lò vi sóng đã trở thành một thiết bị quan trọng trong việc bếp núc nội trợ. Theo nghiên cứu tại nước Mỹ, 90% chủ nhà đều trang bị lò vi sóng trong nhà bếp của họ. Chỉ cần vài nút nhấn, thiết bị phổ biến này có thể đun sôi nước, hâm nóng thức ăn thừa, hoặc rã đông thịt đông lạnh chỉ trong vài phút..v.v..

Lò vi sóng được phát minh sau thời điểm kết thúc chiến tranh thế giới thứ 2. Thời điểm ban đầu sản phẩm rất đắt tiền và có kích thước to lớn, và phát bức xạ nhiều nên chưa được nhiều người tin dùng. Phải đến những năm 2000s, người Mỹ mới xem lò vi sóng là một thiết bị kỹ thuật xếp hạng nhất giúp cải tiến cuộc sống của họ.

Câu chuyện về lò vi sóng đầu tiên có liên quan đến việc chocola tan chảy:

Ông Percy LeBaron Spencer là một kỹ sư tự học. Khi làm việc tại Công ty Raytheon Corp., ông đã nghiên cứu về magnetron - một loại ống chân không tạo ra bức xạ vi sóng và được sử dụng trong hệ thống radar. Năm 1941, ông đã nghĩ ra một cách hiệu quả hơn để sản xuất magnetron. Thông qua sự đổi mới, ông đã sản xuất tăng từ 17 chiếc mỗi ngày lên hơn 2,600 chiếc mỗi ngày.

Trong lúc thử nghiệm magnetron ông Spencer đã nhận ra những thanh chocolate nằm trong túi áo tan chảy. Như được gợi ý, ông ấy đã thử nghiệm với những món thức ăn khác như bỏng ngô (bắp rang) và nhận thấy chúng nở phồng lên. Ông ấy lại tiếp thục thử nghiệm với quả trứng đặt cạnh magnetron, rồi nhìn thấy quả trứng rung lắc và nổ tung. Ông Spencer tin rằng những thực phẩm đã được tiếp xúc với năng lượng vi sóng mật độ thấp. Bước tiếp theo, ông ấy tạo một vỏ hộp kim loại vì biết rằng vi sóng không thoát ra được kim loại. Ông Spencer đã khám phá ra lò vi sóng có thể nấu chín thức ăn nhanh hơn dùng nhiệt. Cuối cùng, ông ấy cũng lấy được bằng sáng chế lò vi sóng vào năm 1945.

Lò vi sóng đầu tiên đã được thử nghiệm tại một nhà hàng Boston trong năm 1947. Một năm sau đó, công ty Raytheon đã giới thiệu một sản phẩm thương mại "the Radarange 1161". Nó cao 1m7, nặng 340kg, và trị giá 5000USD Mỹ. Phải mất nhiều thời gian kết hợp với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, Lò vi sóng mới được ứng dụng rộng rãi đến mọi nhà.

Máy đánh trứng (Electric Mixer)

Vào năm 1856, máy đánh trứng đầu tiên có bộ phận xoay được cấp bằng sáng chế cho ông Ralph Collier, người sống tại thành phố Baltimore, Maryland, nước Mỹ. Tiếp đó, ông E.P. Griffith cũng được cấp bằng sáng chế máy đánh trứng tại Anh vào năm 1857.

Máy đánh trứng sử dụng motor điện đầu tiên được cấp bằng sáng chế cho ông Rufus Eastman, người Mỹ, vào năm 1885.

Năm 1908, ông Herbert Johnson, một kỹ sư của công ty sản xuất Hobart, đã quan sát một người thợ làm bánh đổ mồ hôi đang vất vả trộn một lượng lớn bột bánh mì mà không có gì ngoài một chiếc thìa kim loại. Điều này làm động lực giúp ông Herbert phát minh ra máy trộn sử dụng điện. Mục tiêu của ông là tạo ra một máy trộn cơ học dùng điện mà nó có thể được sử dụng dễ dàng. Thiết kế này tạo ra tiếng vang trong dòng sản phẩm máy trộn vì tính năng quay mới của thiết bị: máy trộn di chuyển cái tô trứng theo chiều kim đồng hồ, còn thiết bị trộn lại quay theo chiều ngược kim đồng hồ.

Năm 1919, công ty Hobart ra mắt dòng sản phẩm KitchenAid Food Preparer dành cho mọi nhà, nhưng có lẽ khối lượng quá nặng gần bằng 25kg với giá 2000USD khiến rất nhiều người do dự khi mua sắm. Công ty Hobart lên chiến dịch bán hàng gõ cửa từng nhà thuyết phục người mua của mình ngay cả khi bổ sung thêm máy ép cam quýt và máy xay thực phẩm. Với quyết định táo bạo này, máy trộn đứng KitchenAid đã trở thành thiết bị “phải có” trong mọi nhà bếp.

Máy rửa chén (Dishwasher)

Máy rửa chén đầu tiên được cấp bằng phát minh cho ông Joel Houghton vào năm 1850 tại nước Mỹ. Thiết bị này được làm bằng gỗ và chén dĩa được rửa bằng tay trong lúc các tia nước phun vào. Sau đó, một người khác tên L.A Alexander cải tiến thêm giá quay để giữ các chén đĩa quay trong thùng gỗ đựng nước. Tuy nhiên, cả hai thiết bị này đều chưa sử dụng phổ biến.

Tranh nghệ thuật sẽ truyền cảm hứng cho bạn hàng ngày. Tranh nghệ thuật tạo ra sự thích thú trong bất kỳ không gian nào và thêm điểm nhấn cho căn phòng của bạn. Tranh nghệ thuật cung cấp cuộc trò chuyện. Khi một bức tranh khiến bạn dừng bước, bạn phải nói về nó.

Quí bà Josephine Cochran được nhìn nhận là người nổi tiếng trong việc sáng tạo máy rửa chén. Ngoài ra, một điều thật sự gây ấn tượng, Josephine có người ông John Fitch là một nhà phát minh được cấp bằng sáng chế Tàu thủy chạy bằng hơi nước.

Câu chuyện xảy ra vào năm 44 tuổi, quí bà Josephine nhận ra và suy nghĩ đến vấn đề người hầu thỉnh thoảng vô ý rửa chén bát rồi làm vỡ chúng. Bà ấy đã tìm ra giải pháp và lên thiết kế. Là mẫu người phụ nữ nghị lực và chăm chỉ, bà làm việc liên tục tại nhà để sáng tạo máy rửa chén. Rồi bà ấy đã thành công. Nhưng phải đến 4 năm sau, bà ấy mới chính thức quảng cáo thành lập công ty sản xuất máy rửa chén Garis-Cochran trên tạp chí địa phương. Thêm một đột phá trong sự nghiệp, vào năm 1893 một cuộc triển lãm tên gọi Columbian Exposition đã sử dụng máy rửa chén của công ty Garis-Cochran để áp dụng trong hệ thống thiết bị bếp chuyên nghiệp của họ.

Công ty Garis-Cochran của quí bà Josephine đã phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, sau khi bà ấy mất, vào năm 1940 công ty đã đổi tên thành Kitchen Aid và trở thành một công ty trong tập đoàn Whirlpool Corporation, nước Mỹ.

Tại Anh, ông William Howard Livens, kỹ sư hóa học người Anh, đã bỏ nhiều công sức để sáng tạo loại máy rửa chén nhỏ gọn, không sử dụng điện dành cho mọi nhà. Cái máy này được xem là có thiết kế ảnh hưởng nhất đến các dòng sản phẩm máy rửa chén ngày nay. Tại Châu Âu, máy rửa chén sử dụng mô tơ điện được sáng tạo và sản xuất bởi công ty Miele, nước Đức trong năm 1929.

Máy tiêu hủy rác (Garbage Disposals)

Máy tiêu hủy rác được sáng tạo bởi ông John W. Hammes (1895-1953) vào năm 1927. Ông Hammes là một nông dân, sau đó theo nghề thợ mộc. Dần dần ông ấy trở thành một nhà thầu xây dựng tại quận Racine, tiểu bang Wisconsin, Hoa Kỳ. Ông ấy nhận thi công hầu hết các dự án cải tạo nhà cũ thành mới. Sản phẩm tuy được sáng tạo vào năm 1927, nhưng mãi đến ngày 27 tháng 8 năm 1935 ông ấy mới nhận bằng phát minh máy tiêu hủy rác. Ngay khi nhận được bằng sáng chế, ông Hammes lại tìm tòi trải nghiệm với nhiều mẫu khác trong suốt gần 11 năm trước khi có ý định thương mại hóa sản phẩm.

Vào năm 1938, ông Hammes đã chính thức giới thiệu sản phẩm ra mắt công chúng. Ông ấy và hai người con trai thành lập công ty sản xuất The In-Sink-Erator tại bang Racine, Wisconsin. Họ mở một cửa hàng nhỏ, và đã bán được 52 sản phẩm trong năm đầu tiên.

Công ty của ông đối mặt rất nhiều khó khăn như việc thiếu chi phí kinh doanh, những cuộc chiến tranh thế giới xảy ra. Những sản phẩm của ông cũng được các đối thủ khác sao chép và chiếm lĩnh thị trường. Mỗi lúc công ty đối mặt với những vấn đề mới, ông ấy luôn tìm ra những giải pháp sáng tạo để giải quyết vấn đề. Ông ấy đã nâng cao nhiều kỹ thuật tiếp thị và sản xuất mới đã được rất nhiều nhà sản xuất khác áp dụng. The In-Sink-Erator giờ đã trở thành một công ty hàng đầu về Máy tiêu hủy rác trong nhà bếp.

Chậu rửa chén (Kitchen Sink)

Vào cuối thế kỷ 17, tại những trang trại tại vùng quê nước Anh hay Ai len, người dân phải sử dụng rất nhiều nước cho việc nấu nướng, giặt giũ, và rửa chén bát..v.v.. Khi hệ thống bơm nước chưa được ứng dụng trong sinh hoạt, mỗi ngày người ta phải tự tay xách nước để tích trữ một khối lượng lớn nước. Thuật ngữ "Farmhouse Sink" là muốn nói đến nơi lưu giữ nước được lấy từ giếng, hồ hay sông.

Đã có hai mẫu Farmhouse Sink với tên gọi "Belfast sink" và "London sink" được sử dụng rất rộng rãi tại vương quốc Anh và Ai len. Tên chậu rửa gọi khác nhau là theo cách đặt tên địa phương. Chúng có thiết kế giống nhau nhưng khác một số đặc tính. Chậu rửa Belfast có độ sâu và rãnh tràn để nước thừa dễ dàng thoát ra ngoài. Chậu rửa London được thiết kế để trong lúc sử dụng, nước được giữ lại không bị tràn ra ngoài.

Farmhouse Sink là tên gọi chậu chứa nước được sử dụng trong những nông trại nước Anh hay Ai len ngày xưa. Tên gọi mới "Apron sink" hay "Apron front sinks" là muốn nói đến loại chậu rửa chén bát đang sử dụng trong mọi căn bếp ngày nay.

Trong những năm 1920s, nhiều chậu rửa là loại treo tường, dù có chân đứng hay không chân. Chúng được làm bằng chất liệu gang có tráng men phủ, đôi khi thêm màu sắc để đa dạng sản phẩm. Trong thời gian này, chậu rửa được tích hợp vào tủ bếp bắt đầu xuất hiện. Chúng là những chậu đơn hay chậu đôi với chất liệu gang tráng men hoặc đất nung tráng men. Những năm 1930, chậu rửa đặt tích hợp vào tủ bếp đã trở thành xu hướng. Loại chậu rửa treo tường đã trở nên lỗi thời.

Đến những năm 1940s - 1950s, tủ kim loại và bồn rửa bằng thép không gỉ đã là những sản phẩm tiêu dùng phổ biến. Chậu rửa Apron đặt trước mặt tủ bếp chuyển đổi thiết kế thành loại chậu rửa đặt âm mặt bếp (undermount kitchen sinks).

Chảo chống dính (Teflon Pans)

Vào năm 1938, ông Roy Plunkett (1910 – 1994), một nhà hóa học nghiên cứu người Mỹ, làm việc cho E.I. du Pont de Nemours và Công ty ở Deepwater, New Jersey, nước Mỹ. Khi đó, ông Plunkett đang thử nghiệm với một hóa chất khí gọi là tetrafluoroethylen và nhận thấy rằng nó đã ngừng chảy bên trong bình áp suất của nó. Điều này xảy ra trước khi trọng lượng của chai có thể giảm xuống và ghi là rỗng. Plunkett tò mò mở nắp chai và nhận ra bên trong là chất bột màu trắng được chứng minh là trơ về mặt hóa học. Điều này có nghĩa là nó không phản ứng với bất kỳ chất nào khác. Nó cũng rất trơn trượt. Liên kết cacbon-flo này rất chặt chẽ, đó là lý do tại sao bề mặt Teflon có thể dễ dàng chống lại thức ăn, nước và các chất khác. Nó cũng hoạt động như một chất bảo vệ cao cấp.

Với khám phá thú vị của Plunkett, một số ngành ngay lập tức nhận ra tiềm năng của Teflon và bắt đầu sử dụng nó một cách hiệu quả.

Đầu những năm 1950s, ông Marc Gregoire, một kỹ sư người Pháp làm việc tại ONERA 1, được ghi nhận là người sáng chế ra chảo không dính. Ông ấy đã sử dụng một số tính năng kỳ diệu của vật liệu này để phủ các vành của chiếc cần câu của mình để dây câu trượt dễ dàng hơn. Tuy nhiên, người vợ Colette không ấn tượng và đề nghị anh tập trung vào việc phát minh ra thứ gì đó để giúp ích như nồi và chảo của cô ấy. Một ngày nọ, khi đang nhìn sữa sôi trong chảo, ông Grégoire lại nảy ra ý tưởng sử dụng Teflon TM. Ngay lập tức ông ấy gọi cho văn phòng DuPont de Nemours ở Paris để hỏi về dạng lỏng của vật liệu kỳ diệu để ông có thể phủ lên đáy chảo rán. Khi nghe điều này, nhân viên công ty DuPont khẽ cười vì cho rằng đặc tính của nhựa là không dính vào bất cứ thứ gì, chứ đừng nói tới chảo rán. Tuy nhiên, họ vẫn sẵn sàng bán cho ông ta vật liệu.

Ông Grégoire đã có ý tưởng tuyệt vời là thêm những giọt axit clohydric vào đáy chảo để nhựa dính vào chúng. Tuy nhiên, ngay cả sau thành công rực rỡ này, ông vẫn không thể tìm thấy một nhà sản xuất nào sẵn sàng sử dụng phát minh của mình. Không nản lòng, ông ấy đã tự kinh doanh và bán chảo trên đường phố với cái tên Téfal, sự pha trộn giữa các từ Teflon TM và nhôm. Kể từ đó, bằng sáng chế của ông đã giúp ông kiếm được nhiều tiền trong nhiều năm.

Lọ Mason (Mason jar)

Những ngày xưa, người nông dân thường tìm phương pháp bảo quản thức ăn để tránh hư hỏng. Trước khi đóng hộp, thực phẩm được sấy khô, hun khói và ướp muối, hoặc ngâm đường để bảo quản. Các phương pháp đóng hộp khác có trước Mason's, nhưng không bảo quản thực phẩm lâu dài và cực kỳ cồng kềnh.

Lọ Mason, một loại lọ có nắp đậy kiểu ren, được xem là sáng chế của ông John Mason vào năm 1858. Ông Mason là một thợ thiếc (tinsmith), đã phát triển những chiếc lọ có hình vuông cung cấp một miếng đệm kín khí. Bình có cổ ren và nắp kim loại có ren vặn xuống miếng đệm cao su vào vai của bình, tạo ra một vòng đệm kín hơi. Những chiếc lọ này cung cấp một phương pháp bảo quản thực phẩm đáng tin cậy hơn. Do an toàn và tiện lợi hơn của việc đóng hộp, người dân thành thị đã có thể sử dụng các sản phẩm tươi sống. Những chiếc lọ này có giá cả phải chăng và có thể tái sử dụng và được phép bảo quản nông sản như cà chua, dưa chua, trái cây, và sử dụng trong mùa đông một cách dễ dàng.

Ấm đun nước điện (Electric Kettle)

Lịch sử ghi nhận việc sử dụng ấm nước để nấu nước sôi cho việc uống trà hay nấu ăn..v.v.. đã có từ rất lâu. Nó có thể được làm bằng đồng, hay sành sứ. Tuy nhiên, trong quá trình cải tiến có một số thiết kế mới được xem là những cột mốc để ghi nhận sự phát triển của một sản phẩm ấm đun nước.

Đầu tiên cần phải nói đến là loại ấm nước Whistles. Đặc trưng của sử dụng loại ấm này là mỗi khi nước sôi lại phát ra tiếng như còi reo hay như tiếng huýt sáo. Phát minh ấm nước Whistles được cho là của ông Sholom Borgelman, người sinh sống tại Vương quốc Anh.

Vào năm 1922, ấm đun nước điện đầu tiên được phát minh bởi ông Arthur Leslie Large ở Birmingham, Vương quốc Anh. Đây được xem là thời gian đầu tiên người ta đun nước sôi mà không cần đặt ấm lên bếp để nấu. Tuy nhiên, ấm điện này cần được tắt trước khi nước sôi bốc hơi hoàn toàn nếu không để ý ngắt điện hay có thể gây ra điện giật.

Ấm đun nước điện tự động đầu tiên

Phát minh cho ấm đun nước điện tự động đầu tiên thuộc về công ty Russell Hobbs sản xuất vào năm 1955. Công ty được thành lập bởi William Russell (1920-2006) và Peter Hobbs (1916-2008) tại Vương quốc Anh vào những năm 1950. Loại ấm đun nước điện này có một dải kim loại làm giảm lực căng của ấm để có thể ngắt điện tự động.

Ngày nay, ấm đun nước điện đã thay thế việc đun ấm nước trên bếp dầu hay bếp gas, và nó đã trở thành một thiết bị không thể thiếu trong mọi nhà bếp người Việt.

Một số dòng sản phẩm cải tiến khác

I-pot là một phát minh của Nhật Bản, do nhà sản xuất thiết bị gia dụng Zojirushi, hợp tác với Fujitsu và nhà điều hành điện thoại NTT, thực hiện theo yêu cầu của một hiệp hội hỗ trợ người già. Ý tưởng là trang bị cho ấm đun nước hệ thống liên lạc không dây ghi lại chuyển động và gửi thông tin này cho người thân hay ngoài người hỗ trợ: nếu ấm được sử dụng vào những thời điểm bình thường, người ta suy ra rằng người đó uống trà một cách rất bình thường; nếu việc sử dụng của ấm tăng lên hoặc ngừng đột ngột, sẽ có một cảnh báo. I-pot cho phép hỗ trợ giám sát những người già yếu từ xa.

iKettle được xem là dòng sản phẩm tiên tiến vì nó là ấm nước có kết nối WiFi mà bạn có thể lập trình từ xa bằng iPhone. Nó đặc biệt tiện dụng vào buổi sáng hoặc buổi chiều khi bạn chỉ muốn vào bếp và sử dụng nước nóng đã được đun sôi để thưởng thức cùng với loại trà yêu thích.

Khuôn bánh quế (Waffle-iron)

Khuôn bánh quế (Waffle-iron) đã được sử dụng để làm bánh từ rất lâu. Tuy nhiên, đến năm 1869, nhà phát minh người Mỹ Cornelius Swarthout (1839 – 1910), người Mỹ đã nhận được chứng nhận bằng sáng chế "cải tiến khuôn bánh quế". Người sử dụng cầm tay để mở, đóng và xoay khuôn bánh quế trên bếp.

Gia đình nhà Maurice Vermersch từ nước Bỉ di cư đến Mỹ sau thời gian chiến tranh thế giới thứ 2. Họ đã kinh doanh loại sản phẩm khuôn bánh quế kiểu Bỉ và tham gia một số hội chợ triển lãm ở Mỹ. Dù nhiều người đã rất thích ăn món bánh kẹp này, nhưng cái tên “Brussels waffles” vẫn chưa được biết đến. Họ quyết định đổi tên thành “Belgian Waffles” và tham gia Triển lãm thương mại thế giới tổ chức tại Queen, New York vào năm 1964. Họ đã làm những cái bánh kẹp quế thêm kem và dâu tây vào. Thật bất ngờ, bánh kẹp của họ đã làm cho những người có tâm hồn ăn uống cảm thấy đắm đuối, mê mệt. Trong thời gian tham gia triển lãm, họ đã bán được đến 2500 khuôn bánh mỗi ngày.

Hộp nhựa gia dụng (Tupperware)

Ông Earl Silas Tupper (1908-1983) là một doanh nhân và nhà phát minh, sinh tại tiểu bang New Hampshire, nước Mỹ. Ông ấy là người đi tiên phong trong lĩnh vực công nghiệp nhựa, và bắt đầu sản xuất nhựa gia dụng vào năm 1938. Tupperware (hộp nhựa có nắp đậy kín) là sản phẩm nhựa polyethylene, một vật liệu mới được sử dụng chủ yếu trong cách nhiệt, radar và thiết bị vô tuyến. Ông Tupper đã được nhận bằng sáng chế cho những sản phẩm nhựa Tupperware vào năm 1947.

Sản phẩm Tupperware lúc đầu ra mắt được bán tại cửa hàng nhưng không được đón nhận của người dùng. Khách hàng cảm thấy bối rối khi tìm cách mở nắp hộp nhựa. Hàng hóa tại cửa hàng bị bán chậm. Đến năm 1951, ôngTupper đã ra quyết định bỏ hết hàng hóa trưng bày tại cửa hàng. Thay vào đó, ông ấy áp dụng chiến lược tiếp thị “bữa tiệc tại gia” (Tupperware Parties) để quảng cáo sản phẩm trực tiếp đến những người nội trợ. Người tổ chức tiệc sẽ nhận được các sản phẩm miễn phí, đổi lại họ mời khách xem các dòng sản phẩm của công ty. Những nhân viên kinh doanh đã thực hiện thành công chiến lược này.

Ngày nay, công ty Tupperware là một công ty có thương hiệu hàng đầu trong sản phẩm nhựa gia dụng.

Nồi cơm điện (Rice Cooker)

Tập đoàn Mitsubishi Electric Nhật Bản sản xuất bếp điện thương mại đầu tiên vào năm 1945. Nó được làm từ nồi nhôm gắn với một cuộn dây nóng đặt bên trong nồi chính. Tuy nhiên, thiết bị đầu tiên không có nút bật tắt tự động nên người dùng phải canh chừng trong quá trình nấu để cơm không bị cháy khét. Thời gian tiếp theo, công ty đã cho ra nhiều sản phẩm cải tiến tốt hơn.

Những tháng cuối năm 1956, tập đoàn Toshiba cũng đã giới thiệu bếp điện tự động ra thị trường và đạt được nhiều thành công. Nó có hai ngăn riêng biệt và không áp dụng phương pháp nấu cơm hiện đại. Gạo sẽ được cho vào nồi kết hợp với việc đổ nước vừa đủ. Khi nước sôi và nhiệt độ bên trong tăng đến một mức độ định sẵn, nồi cơm điện sẽ tự động tắt.

Máy hút mùi (Kitchen Hood)

Vào năm 1926, ông Theodore R.N. Gerdes được cấp bằng sáng chế "máy hút mùi": cái máy dùng quạt để hút những mùi lúc nấu bếp. Hai năm sau, năm 1928, ông Lloyd W. Ray nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho máy hút mùi bếp, được thiết kế cho bếp nấu và đĩa nóng dùng trong quầy bánh hamburger. Thời điểm này, máy hút mùi này đảm bảo rằng dầu mỡ được tách ra khỏi hơi và không khí nóng cũng được dẫn từ bên dưới tấm nóng.

Năm 1932, ông Henry Broan đã phát triển và sản xuất loại quạt bếp gọi là Motordor® Fan, có tính năng hút mùi và hoạt động giảm tiếng ồn một cách hiệu quả.


(Còn tiếp)


Nguồn tham khảo:

https://en.wikipedia.org - Cornelius Swartwout

https://en.wikipedia.org - Mason jar

https://www.johndesmond.com - The History of Toasters

https://en.wikipedia.org - Microwave oven

https://en.wikipedia.org - Mixer (appliance)

https://www.electrickettlesguide.com - A History of The Electric Kettle

https://en.wikipedia.org - Electric stove

https://cookeradviser.com - The History of Rice Cooker


Xem thêm các bài viết khác:

Nội thất bếp. Thiết kế bếp. Báo giá bếp. Thi công bếp

Tranh treo tường

Giường lều trẻ em. Giường Montessori. Giường ngôi nhà cho bé. Giường ngôi nhà cổ tích

Bàn trà, Bàn cafe, Bàn rượu và Bàn Sofa

Ghế lười. Ghế lười sofa. Ghế lười quả lê. Ghế lười HCM

Loft là gì? Căn hộ Loft là gì?

Thiết kế văn phòng áp dụng Nhân trắc học, Công thái học




START PROJECT